Trang chủ / Thông tin y học

Xét nghiệm máu tầm soát ung thư có chính xác không?

Tầm soát ung thư là một trong những chủ đề về sức khỏe đang được quan tâm rộng rãi trong thời gian gần đây. Vậy kết quả tầm soát ung thư có chính xác không và những yếu tố ảnh hưởng đến độ chính xác của kết quả tầm soát ung thư là gì? Hãy cùng Premium Therapy tìm hiểu qua bài viết này ngay nhé!

Tầm soát ung thư có chính xác không?

Theo định nghĩa từ Viện Ung thư Quốc gia Hoa Kỳ (NCI), tầm soát ung thư là phương pháp phát hiện ung thư từ sớm trước khi triệu chứng được biểu hiện [1]. Theo lưu ý từ NCI, có nhiều phương pháp tầm soát ung thư khác nhau, tuy nhiên, không phải lúc nào tầm soát ung thư cũng cho kết quả chính xác [1]. Hai sai số trong tầm soát ung thư cần lưu ý bao gồm kết quả tầm soát ung thư dương tính giả (false-positive) và âm tính giả (false-negative) [1]. Việc nắm được chính xác độ chính xác của tầm soát ung thư, lợi ích và tác hại của từng phương pháp là vô cùng quan trọng để đưa ra lựa chọn phù hợp cho bản thân [1].

Tầm soát ung thư có chính xác không?

Các yếu tố ảnh hưởng đến độ chính xác của tầm soát ung thư

Các yếu tố ảnh hưởng đến độ chính xác của tầm soát ung thư gồm [1 – 9]:

Phương pháp tầm soát

Phương pháp tầm soát là một trong những yếu tố quyết định trực tiếp kết quả tầm soát ung thư [1 – 5]. Mỗi phương pháp tầm soát ung thư khác nhau có sai số liên quan đến kết quả tầm soát ung thư khác nhau [1 – 5].

– Theo bài đăng trên Tạp chí khoa học uy tín quốc tế Nature, phương pháp phổ biến trong tầm soát ung thư vú, phương pháp chụp X – quang tuyến vú (mammogram) có kết quả tầm soát ung thư âm tính giả ở phụ nữ trong độ tuổi 50 – 69 tuổi chiếm tỉ lệ từ 15 – 25% [2].

Một trong những phương pháp đánh giá chất lượng và độ chính xác của phương pháp tầm soát ung thư chính xác và hiệu quả là thông qua so sánh kết quả tầm soát bằng phương pháp được ứng dụng với kết quả tầm soát ung thư bằng sinh thiết [2]. Tại Cộng hòa Liên bang Đức, thông số độ nhạy là thông số đặc trưng thể hiện kết quả đánh giá [2]. Theo thống kê, độ nhạy của phương pháp tầm soát ung thư vú tại Cộng hòa Liên bang Đức bằng nhũ ảnh (mammogram) tăng lên mỗi năm và đạt hơn 80% vào thời điểm năm 2018 [3]. Sai số trong tầm soát ung thư thông qua X – quang nhũ ảnh tại Hoa Kỳ lần lượt là 12% và 1% đối với tỉ lệ dương tính giả và âm tính giả ở phụ nữ trong độ tuổi 40 – 89 tuổi [2]. Tỉ lệ dương tính giả thường cao hơn ở phụ nữ trẻ tuổi, có mật độ mô tuyến vú dày hoặc có tiền sử gia đình mắc ung thư vú [4].

– Theo Tạp chí về y học ung thư Cancer Medicine, sai số trong tầm soát ung thư bằng phương pháp tầm soát dựa trên sinh thiết lỏng “mỗi xét nghiệm phát hiện một loại ung thư” (SCED) thường cao hơn so với phương pháp “tầm soát đa ung thư” (MCED) [5].

Phương pháp “tầm soát đa ung thư” là phương pháp có tỉ lệ dương tính giả, tổng chi phí tầm soát thấp, hiệu quả và tối ưu trong tầm soát ung thư [5]. Dù độ nhạy của phương pháp SCED có thể cao hơn, tuy nhiên, tỉ lệ kết quả tầm soát ung thư dương tính cao có thể dẫn đến số lượng lớn những xét nghiệm chẩn đoán về sau, tạo gánh nặng lớn cho cơ sở y tế trong việc quản lý [5]. Do đó, tỉ lệ dương tính giả là một trong những thông số quan trọng trong chiến lược tầm soát ung thư tổng thể [5]. Tỉ lệ dương tính giả của phương pháp tầm soát đa ung thư (MCED) theo kết quả nghiên cứu từ Tạp chí Cancer Medicine là thấp hơn 1% [5].

Bên cạnh đó, tỉ lệ xuất hiện kết quả tầm soát ung thư dương tính giả của một cá nhân khi tầm soát riêng lẻ từng loại ung thư trong thử nghiệm tầm soát bốn loại ung thư (ung thư tuyến tiền liệt, phổi, đại tràng và buồng trứng –  PLCO) công bố trên Tạp chí Biên niên sử y học nội khoa Annals of Family Medicine là hơn 50% tại lần thực hiện thứ 14 và sau thời gian tầm soát là 3 năm [6].

Các yếu tố ảnh hưởng đến độ chính xác của tầm soát ung thư

Trang thiết bị và công nghệ xét nghiệm

Một trong những yếu tố ảnh hưởng đến độ chính xác của tầm soát ung thư là trang thiết bị và công nghệ xét nghiệm [2, 5, 7, 8]. Theo nghiên cứu về chất lượng kết quả tầm soát ung thư vú công bố trên Tạp chí về khoa học truy cập mở từ các lĩnh vực khoa học tự nhiên, tâm lý học, y học và kỹ thuật Scientific Reports thuộc Tạp chí dẫn đầu thế giới về bản chất khoa học đa lĩnh vực Nature, tỉ lệ sai số trong tầm soát ung thư vú có liên quan đến mức độ bảo trì của trang thiết bị sử dụng [2]. Bên cạnh đó, công nghệ xét nghiệm có ảnh hưởng lớn đến kết quả tầm soát ung thư [5, 7, 8]. Tỉ lệ dương tính giả và sai số trong tầm soát ung thư liên quan đến các phương pháp tầm soát ung thư truyền thống như xét nghiệm kháng nguyên PSA (ung thư tuyến tiền liệt), chụp X – quang tuyến vú (ung thư vú, xét nghiệm miễn dịch hóa học trong phân (FIT) (ung thư đại tràng), tầm soát ung thư sinh thiết lỏng riêng lẻ – mỗi xét nghiệm phát hiện một ung thư (SCED),… thường cao so với phương pháp tầm soát đa ung thư bằng sinh thiết lỏng (MCED) mới (dựa trên phân tích tần suất biểu hiện gene, định lượng bản sao mRNA ,…) [2, 5, 7, 8]. Theo kết quả nghiên cứu trên Tạp chí khoa học quốc tế về nội soi tiêu hóa Gastrointestinal Endoscopy, tỉ lệ dương tính giả và âm tính giả trong kết quả tầm soát ung thư đại tràng bằng FIT lần lượt là 8.1% và 66.9% [8].

Chất lượng mẫu thử

Theo nghiên cứu từ Tạp chí Hiệp hội X – quang Canada Canadian Association of Radiologists Journal, chất lượng hình ảnh X – quang trong tầm soát ung thư có khả năng làm tăng tỉ lệ kết quả tầm soát ung thư dương tính giả từ 10 – 30% [9].

Thời điểm thực hiện

Thời điểm thực hiện ung thư là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến sai số trong tầm soát ung thư [2]. Theo Tạp chí biên niên sử y học nội khoa Annals of internal medicine, tỉ lệ xuất hiện kết quả dương tính giả trong tầm soát ung thư vú cao hàng đầu ở phụ nữ trong độ tuổi 40 – 49 tuổi và giảm dần khi tuổi càng cao [4]. Theo kết quả nghiên cứu, tỉ lệ dương tính giả và âm tính giả trong tầm soát ung thư vú lần lượt là 12.1% và 0.1% [4]. Ngoài ra, sai số trong tầm soát ung thư được ghi nhận là không có khác biệt nhiều giữa các thời điểm thực hiện tầm soát [4].

Thời điểm thực hiện

Trình độ chuyên môn của đội ngũ y bác sĩ

Trình độ chuyên môn là một trong những yếu tố quan trọng liên quan đến chất lượng kết quả tầm soát ung thư [10, 11].

Theo nghiên cứu từ Tạp chí của Viện Ung thư Quốc gia (JNCI) Canada, kinh nghiệm chẩn đoán của bác sĩ chẩn đoán có ảnh hưởng lớn đến độ chính xác của tầm soát ung thư vú, đặc biệt qua phương pháp chụp X-quang tuyến vú (mammography) [10]. Theo kết quả nghiên cứu, bác sĩ có số lượng hình ảnh X – quang chẩn đoán trong một năm cao có khả năng cải thiện độ chính xác khi tầm soát, và ngược lại, bác sĩ có số lượng hình ảnh X – quang chẩn đoán trong một năm thấp có khả năng giảm độ chính xác khi tầm soát [10]. Theo nghiên cứu, các bác sĩ có số lượng hình ảnh chẩn đoán ít hơn 500 hình mỗi năm có 58% khả năng giảm độ chính xác trong tầm soát ung thư [10]. Trong khi đó, các bác sĩ có số lượng hình ảnh chẩn đoán tối thiểu 4.000 hình một năm có 32% khả năng cải thiện độ chính xác so với các bác sĩ có số lượng hình ảnh chẩn đoán từ 500 đến dưới 1.000 hình mỗi năm [10].

Theo đúc kết từ Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ (ACS), bác sĩ có vai trò quan trọng trong giảm thiểu sai số trong tầm soát ung thư bằng nhiều cách, từ đưa ra phác đồ chẩn đoán hiệu quả, cung cấp thông tin y khoa chính xác và đúng hướng, thu nhận mẫu chất lượng, cung cấp kết quả tầm soát ung thư kịp thời, phân tích sự không đồng nhất giữa các kết quả tầm soát ung thư đến ủng hộ việc không thực hiện tầm soát trong một số trường hợp cụ thể [11].

Nên thực hiện tầm soát ung thư ở đâu?

Theo nghiên cứu được công bố trên Tạp chí Y khoa Anh (BMJ), kết quả tầm soát ung thư thu nhận tại cơ sở có quy trình thực hiện và kiểm định chất lượng bài bản có mức độ chính xác và chất lượng cao hơn [12]. Theo kết quả công bố, độ chính xác của tầm soát ung thư vú tại các quốc gia thuộc khối Liên minh châu Âu (EU) cao hơn so với các quốc gia châu Mỹ (Canada – Thành phố Quebec, Thành phố Brunswick và Hoa Kỳ), với tỉ lệ dương tính giả trong tầm soát ung thư thấp hơn [12].

Cơ sở tầm soát ung thư uy tín tại Việt Nam gồm:

  • Hệ thống chăm sóc sức khỏe Vinmec
  • Bệnh viện Pháp Việt (FV)
  • Bệnh viện đa khoa Tâm Anh
  • Bệnh viện Trung ương Quân đội 108
  • Bệnh viện Đại học Y Hà Nội
  • Bệnh Viện Hoàn Mỹ Sài Gòn

Tổng kết

Tầm soát ung thư từ sớm, đặc biệt với một số loại ung thư (ung thư vú, ung thư cổ tử cung và ung thư đại tràng) là chìa khóa quan trọng trong phát hiện và điều trị kịp thời ung thư từ sớm, cải thiện đáng kể khả năng sống sót của bệnh nhân. Theo khuyến cáo từ Viện Ung thư Quốc gia Hoa Kỳ (NCI) và Ủy ban châu Âu (EU Commission), tầm soát ung thư có thể đi kèm một số rủi ro nhất định, việc lựa chọn phương thức tầm soát ung thư sau khi đã xem xét, tìm hiểu và cân nhắc kĩ về lợi ích, tác hại và độ chính xác của phương pháp tầm soát ung thư.

Nếu quý khách hàng có nhu cầu tìm hiểu thêm về Liệu pháp chẩn đoán và tầm soát ung thư Onco Check kết hợp lọc máu Apheresis dựa trên biểu hiện gene của 40 gene ung thư và 13 gene miễn dịch tại CHLB Đức, hãy để Premium Therapy đồng hành. Liệu pháp chẩn đoán và tầm soát ung thư Onco Check kết hợp lọc máu Apheresis là liệu pháp y học tiên tiến hỗ trợ tầm soát ung thư ở giai đoạn sớm, đánh giá nguy cơ ung thư, khả năng di căn, bệnh tự miễn – ứng dụng khuyến nghị hướng phòng ngừa và điều trị cá nhân hóa từ CHLB Đức.

Nếu quý khách hàng có nhu cầu tìm hiểu thêm về liệu pháp Chẩn đoán và tầm soát ung thư Onco Check kết hợp lọc máu Apheresis hay các dịch vụ trị liệu y tế cao cấp tại CHLB Đức khác, vui lòng liên hệ Hotline 09 119 10 119 hoặc đăng ký tại đây để được hỗ trợ chi tiết nhất.

CÔNG TY CP PREMIUM THERAPY – Đại diện các Trung tâm trị liệu & Bệnh viện uy tín hàng đầu CHLB Đức tại Đông Dương:

  • 📞0911 910 119 – 0934 092 090
  • 📩info@premiumtherapy.vn
  • 🇻🇳 6 Grand 2 – The Peak Garden Villa, 600 Nguyễn Lương Bằng, Quận 7, Tp. HCM
  • 🇩🇪 Dachauer Straße 9, 80335 München
  • Website: https://premiumtherapy.vn/
  • Email: info@premiumtherapy.vn

Nguồn tham khảo:

  1. National Cancer Institute. (2010). Cancer Screening Overview. https://www.cancer.gov/about-cancer/screening/patient-screening-overview-pdq
  2. Câmara, A. B., Duarte, L. S., Cury, L. C. P. B., & Wünsch Filho, V. (2025). Factors associated with false-positive screening mammography in São Paulo, Brazil. Scientific Reports, 15(1), 4849. https://doi.org/10.1038/s41598-025-86993-x
  3. Bokhof, B., Khil, L., Urbschat, I., Gnas, L., Hecht, G., Heidinger, O., Heindel, W., Kieschke, J., Weigel, S., & Hense, H. W. (2018). Zeitliche Entwicklung der Programmsensitivität des deutschen Mammographie-Screening-Programms in Nordrhein-Westfalen und Niedersachsen [Time trend in programme sensitivity within the German mammography screening programme in North Rhine-Westphalia and Lower Saxony]. Bundesgesundheitsblatt, Gesundheitsforschung, Gesundheitsschutz, 61(12), 1517–1527. https://doi.org/10.1007/s00103-018-2843-7
  4. Nelson, H. D., O’Meara, E. S., Kerlikowske, K., Balch, S., & Miglioretti, D. (2016). Factors Associated With Rates of False-Positive and False-Negative Results From Digital Mammography Screening: An Analysis of Registry Data. Annals of internal medicine, 164(4), 226–235. https://doi.org/10.7326/M15-0971
  5. Madhavan, S., Hackshaw, A., Hubbell, E., Chang, E. T., Kansal, A., & Clarke, C. A. (2025). Estimating the Burden of False Positives and Implementation Costs From Adding Multiple Single Cancer Tests or a Single Multi-Cancer Test to Standard-Of-Care Screening. Cancer medicine, 14(6), e70776. https://doi.org/10.1002/cam4.70776
  6. J. M. Croswell, B. S. Kramer, A. R. Kreimer, et al., “Cumulative Incidence of False-Positive Results in Repeated, Multimodal Cancer Screening,” Annals of Family Medicine 7, no. 3 (2009): 212–222, https://doi.org/10.1370/afm.942
  7. Bernal-Soriano, M. C., Parker, L. A., López-Garrigos, M., Hernández-Aguado, I., Caballero-Romeu, J. P., Gómez-Pérez, L., Alfayate-Guerra, R., Pastor-Valero, M., García, N., & Lumbreras, B. (2019). Factors associated with false negative and false positive results of prostate-specific antigen (PSA) and the impact on patient health: Cohort study protocol. Medicine, 98(40), e17451. https://doi.org/10.1097/MD.0000000000017451
  8. Wong, M. C. S., Ching, J. Y. L., Chan, V. C. W., Lam, T. Y. T., Luk, A. K. C., Ng, S. S. M., & Sung, J. J. Y. (2015). Factors associated with false-positive and false-negative fecal immunochemical test results for colorectal cancer screening. Gastrointestinal Endoscopy, 81(3), 596–607. https://doi.org/10.1016/j.gie.2014.08.006
  9. Guertin, M.-H., Théberge, I., Zomahoun, H. T. V., Dufresne, M.-P., Pelletier, É., & Brisson, J. (2018). Mammography Clinical Image Quality and the False Positive Rate in a Canadian Breast Cancer Screening Program. Canadian Association of Radiologists Journal, 69(2), 169–175. https://doi.org/10.1016/j.carj.2017.12.003
  10. Isabelle Théberge, Sue-Ling Chang, Nathalie Vandal, Jean-Marc Daigle, Marie-Hélène Guertin, Éric Pelletier, Jacques Brisson, Radiologist Interpretive Volume and Breast Cancer Screening Accuracy in a Canadian Organized Screening Program, JNCI: Journal of the National Cancer Institute, Volume 106, Issue 3, March 2014, djt461, https://doi.org/10.1093/jnci/djt461
  11. Raab, S. S., & Grzybicki, D. M. (2010). Quality in Cancer Diagnosis. CA: A Cancer Journal for Clinicians, 60(3), 139–165. https://doi.org/10.3322/caac.20068
  12. Yuan, Y., Vu, K., Shen, Y., Dickinson, J., & Winget, M. (2020). Importance of quality in breast cancer screening practice – a natural experiment in Alberta, Canada. https://doi.org/10.1136/bmjopen-2018-028766